Trong các hỗn hợp NR/NBR, hệ kết mạng được sử dụng phải phù hợp để đạt được sự phân bố liên kết mạng đồng đều ở hai pha NR và NBR, giúp sản phẩm đạt được cơ tính tốt. Bài viết này giới thiệu một nghiên cứu khảo sát các hệ kết mạng phù hợp cho hỗn hợp NR/NBR và những kết quả đạt được.

Trong nghiên cứu, một hỗn hợp 50:50 NR:NBR41 (hàm lượng acrylonitrile 41%) được sử dụng thí nghiệm. Các chất xúc tiến chính được khảo sát là các sulphenamide thông thường như CBS, MBS và TBBS. Tỷ lệ lưu huỳnh/chất xúc tiến 1:1, được sử dụng ở mức 1.3 phr. Các thành phần khác được phối trộn vào hỗn hợp NR và NBR gồm 5 phr zinc oxide, 2 phr stearic acid và 1.5 phr chất chống oxy hóa TMQ. Để tăng vận tốc kết mạng, các chất xúc tiến phụ 0.1 phr cũng được thêm vào như TMTM, DPG, TBTD, MBTS và ODIP. Tác động của một lượng nhỏ chất xúc tiến phụ lên vận tốc kết mạng và phân bố liên kết mạng cũng được nghiên cứu.

Kết quả thí nghiệm như sau: chất xúc tiến CBS tạo nên sự phân bố không đều mật độ liên kết mạng, nhiều hơn trong NR; MBS tạo nên sự phân bố liên kết mạng tương đối đều, nhưng mật độ kết mạng chung thấp hơn đáng kể, làm giảm cơ tính; TBBS dường như là chất xúc tiến phù hợp nhất và vận tốc kết mạng có thể tăng lên bằng các chất xúc tiến phụ như TBTD và MBTS, chúng không gây ảnh hưởng bất lợi đến sự phân bố liên kết mạng.

Độ bền kéo cao nhất khi tỷ lệ mật độ liên kết mạng NR/NBR khoảng 1.0 – 1.2, gần với sự phân bố liên kết mạng đều giữa hai pha hoặc nhiều hơn một ít trong pha NR. Điều này là do cao su NR bền hơn nên phải có mật độ liên kết mạng đủ để hỗn hợp có độ bền tốt.

Tham khảo từ tài liệu Blends of Natural Rubber: Novel Techniques for Blending with Specialty Polymers, Andrew J. Tinker và Kevin P. Jones, Springer, 1998, trang 54 – 58

(vtp-vlab-caosuviet)




Share |





@Copyright

Công ty TNHH Cao Su Việt
giữ bản quyền hình ảnh sản phẩm trong trang web này. Vui lòng không sao chép.