Vài năm sau sự phát triển của polychloroprene và polysulphide, một họ cao su tổng hợp quan trọng, cao su nitrile-butadiene NBR, được phát triển từ quá trình copolymer hóa butadiene và acrylonitrile. Cao su này có nhiều tên thương mại khác nhau như Buna N, Perbunan, Ameripol, Butaprene, Chemigum, Hycar và Paracril. Cao su NBR tạo nên sự kết hợp tốt giữa tính chất cơ học và tính kháng với sự trương nở trong dầu. Hơn nữa, có thể điều chỉnh tính kháng dầu và khuynh hướng đông cứng ở nhiệt độ thấp dễ dàng bằng cách thay đổi hàm lượng acrylonitrile trong khoảng 25-40 %.
Trong khoảng thời gian này, một họ cao su tổng hợp quan trọng khác là cao su styrene-butadiene SBR xuất hiện. Cao su SBR được phát triển ban đầu ở Đức trong những năm 1930. Cao su SBR, được tạo thành bởi quá trình polymer hóa nhũ tương styrene và butadiene, có tính chất cơ học tốt hơn homopolymer butadiene. Cao su SBR còn được gọi là Buna S, là vật liệu dai được làm mềm bằng quá trình gia nhiệt trong không khí và thêm dầu hóa dẻo trước khi chúng được gia công trong thiết bị sản xuất cao su truyền thống.
Tới cuối những năm 1930, sự quan tâm chủ yếu tập trung vào cao su Buna N như cao su kháng dầu đặc biệt thay thế cho cao su chloroprene, hơn là cao su Buna S thay thế cho cao su thiên nhiên.
Tham khảo từ tài liệu Synthetic Rubbers: Their Chemistry and Technology, D. C. Blackley, Applied Science Publishers, 1983, trang 21 – 22
(vtp-vlab-caosuviet)