Những xuất bản về phân giải lưu hóa bằng phương pháp hóa cơ xuất hiện từ Chiến tranh thế giới thứ II. Quá trình được thực hiện trên máy cán cao su hai trục ở nhiệt độ tương đối thấp (< 80°C) kết hợp với việc sử dụng các hóa chất như chất xúc tiến, chất làm mềm và chất peptizing. Hóa chất sử dụng kết hợp với lực trượt tấn công các liên kết lưu huỳnh-lưu huỳnh, làm giảm mật độ liên kết mạng và tăng tính dẻo. Vào khoảng những năm 1980, các hóa chất được sử dụng thông thường là các thiol và disulfide, thời gian thực hiện khoảng 30 phút.
Cơ chế của quá trình cơ bản như sau: bẻ gãy các liên kết mạng lưu huỳnh và khóa các liên kết mạng đã bị cắt, sau đó cho phép các liên kết mạng hình thành lại dùng mức lưu huỳnh thấp hơn ở nhiệt độ cao. Trong đó, năng lượng từ nhiệt, cơ học và hóa chất thực hiện 2 việc chính sau. Đầu tiên, chúng tách disulfide thành các gốc tự do. Sau đó, năng lượng này cũng cắt mạch cao su thành các đơn vị nhỏ hơn. Khi những phản ứng này xảy ra, các gốc tự do disulfide có thể ghép với các gốc tự do cao su, tránh sự tự kết hợp lại và vì vậy khối lượng phân tử cao su được duy trì thấp. Một số nghiên cứu cho rằng không phải chỉ disulfide, oxy trong không khí kết hợp với nhiệt và sự trượt cơ học, cũng gây ra sự cắt đứt mạch polymer và liên kết mạng.
Trong thời gian gần đây, các chất phân giải lưu hóa có nguồn gốc tự nhiên đã được sử dụng. Nhiệt độ quá trình tương đối thấp từ 40 tới 60oC. Các hóa chất tự nhiên không hiệu quả như các disulfide thông thường, phải dùng nhiều hóa chất hơn và thời gian cho quá trình lâu hơn. Tuy nhiên, nó thân thiện với môi trường và ít độc cho con người.
Tham khảo từ tài liệu Rubber Recycling, Sadhan K. De, Avraam I. Isayev và Klementina Khait, CRC Press, 2005
(vtp-vlab-caosuviet)