Các kỹ thuật đúc khuôn ép và đúc khuôn chạy là các phương pháp được sử dụng phổ biến để sản xuất các sản phẩm cao su silicone. Nhìn chung, nhiệt độ đúc khuôn (115 tới 180 oC), áp suất và thời gian đúc khuôn thay đổi theo kích thước chi tiết, thiết kế khuôn để sản phẩm đạt được chất lượng tốt nhất. So với các loại cao su khác, cao su silicone có tính chảy tốt khi chịu áp, thậm chí ở nhiệt độ môi trường. Tính chất này giúp cao su silicone phù hợp với nhiều phương pháp sản xuất khác nhau như đúc khuôn ép, đúc khuôn chạy, đúc khuôn tiêm, đúc khuôn thổi, ép đùn, cán tráng, bọc sợi, và bọc trục.

Do nhiều kỹ thuật đúc khuôn phù hợp cho cao su silicone nên phải xem xét thuận lợi đặc trưng của từng kỹ thuật. Đúc khuôn ép đơn giản, linh hoạt nhất, nhưng cần nhiều lao động. Đúc khuôn chạy phù hợp cho các chi tiết phức tạp, phải điền đầy nhiều lỗ khuôn, hoặc cần bám dính tốt với các chi tiết kim loại thêm vào. Đúc khuôn tiêm có chu kỳ đúc khuôn ngắn, tạo nên tính đồng đều cao, phù hợp với sản xuất lớn.

Để đạt được những tính chất tốt nhất, hầu hết các chi tiết cao su silicone tạo thành sau khi kết mạng với peroxide (đặc biệt là 2,4-dichlorobenzoyl peroxide hoặc benzoyl peroxide) cần được tiếp tục cho vào lò nung (post cure). Quá trình này giúp loại bỏ hoàn toàn các sản phẩm phụ do phân hủy peroxide cũng như các chất dễ bay hơi. Bình thường, quá trình này (post cure) được thực hiện trong một lò nung tuần hoàn không khí từ 2 tới 4 giờ ở 200 oC.

Tham khảo từ tài liệu Rubber Technologist’s Handbook (Volume 2), J. White, S.K. De và K. Naskar, Smithers Rapra Press, 2009, trang 401 – 403

(vtp-vlab-caosuviet)




Share |





@Copyright

Công ty TNHH Cao Su Việt
giữ bản quyền hình ảnh sản phẩm trong trang web này. Vui lòng không sao chép.